-
Bất kỳ Đấng Mê-si là ai, Ngài đã phải đến và chết trước năm 70 Sau Chúa
Sau năm thế kỷ tích lũy lời dạy truyền khẩu trôi qua, Ra-bi Yehudah ha Nassi – nghĩa là “Hội Trưởng Giu-đa (Judah the President)” – cùng các môn đồ đã viết các tài liệu được tuyển chọn từ luật truyền khẩu (oral law), rồi gọi là “Mishnah” và việc nầy không được thực hiện cho đến năm 230 A.D (Sau Chúa). Nói cách khác, ngay cả kinh Talmud cũng không viết trước năm 230 A.D. Những gì các Ra-bi dạy là: Talmud – mà họ gọi là Torah b'pei được ban cho Môi-se trên Núi Sinai, mặc dù ông không viết ra. Tuy nhiên ở Giô-suê 8:35 cùng các nơi khác, chúng ta đọc thấy: “Chẳng có lời nào về mọi điều Môi-se đã truyền dặn mà Giô-suê không đọc tại trước mặt cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, trước mặt đàn bà, con nít, và khách lạ ở giữa họ.” Như vậy kinh Torah nói Môi-se là trước giả, nhưng các ra-bi phủ nhận điều nầy và tuyên bố luật truyền khẩu được ban cho mà không viết ra cho đến kỳ hạn sau. Họ đi rất xa như vậy để cho rằng quan điểm của ra- bi còn quan trọng hơn những quan điểm của một ngàn tiên tri, bởi vì các tiên tri chỉ là sứ giả và thư ký, trong khi các ra-bi phải giải thích cùng tiết lộ ý nghĩa những sứ điệp.
Mỗi thế hệ tiếp tục nêu lên các vấn đề mới, vì vậy có chuyên gia, và một trong số họ là Ra-bi Yohochanan, thuộc trường tương tự như Ti-bê-ri-át. Ông biên soạn những quyết định ra-bi mới nầy khoảng năm 330 A.D. Khi hoàn thành, ông gọi là Gimmorah, lấy ở từ ngữ Hê-bơ-rơ có nghĩa “kết thúc (to finish),” hay “hoàn tất (completion).”
Mishnah và Gimmorah được gộp chung lại và đặt tên là Jerusalem Talmud, đây là kinh Talmud đầu tiên. Tuy nhiên trải qua các thế kỷ, có nhiều giả mạo với kinh Talmud, với tất cả các loại lý lẽ chỉ trích như văn bản gốc thật sự đã nói ở một số trường hợp.
Suốt Thời Kỳ Tăm Tối (Dark Ages) – từ khoảng năm 900 đến 1.500 A.D. – những việc khác bắt đầu phát triển. Rất ít người Do Thái có thể hiểu các văn bản tiếng Hê-bơ-rơ hay A-ram, vì vậy việc chú giải và soạn ra luật lệ được viết vào kinh Talmud. Những luật lệ soạn ra nầy được cô đọng lại thành các bộ luật có hệ thống (systematic codes of law), từ đây chúng ta có các bộ luật Do Thái Torim, Riff, Schulhan Aruch, Ha kitzor Ha Schulhan Aruch, Mishnah Torah, vân vân.* Rambam** là ra-bi chính vào thời nầy, trước ông là Rashi*** ở Pháp. Họ tiếp tục xa khỏi Lời Đức Chúa Trời, và bắt đầu phát triển theo đường lối tương tự như Công giáo La Mã.
*Thời Kỳ Tăm Tối (Dark Ages) là thời kỳ ở Tây Âu giữa Thời Trung Cổ (Middle Ages) và Đế Quốc La Mã sụp đổ, khoảng năm 500 đến 1.100 sau Chúa, khi các bộ tộc Đức tràn qua Châu Âu và Bắc Phi tấn công phá hủy làng mạc, thị trấn. Dark Ages cũng là thời kỳ ở Hy Lạp từ cuối Thời Kỳ Đồ Đồng đến đầu Thời Kỳ Cổ (Archaic period), thời kỳ không có dinh thự hay pháo đài nào, và các văn bản nghệ thuật dường như biến mất. ND.
**Rambam, là tên viết tắt của Ra-bi Moshe ben (con trai của) Mainmon, một trong những nhân vật kiệt xuất trong lịch sử dân Do Thái. Người ta nói về ông: “Từ Moshe (Môi-se) đến Moshe (con trai của Mainmon) không có ai nổi lên như Moshe (From Moshe to Moshe, there arose none like Moshe).” Danh tiếng và ảnh hưởng ông vượt xa biên giới nước mình. Ông được gọi là Maimonides, theo dạng Hy Lạp tức là “con trai của Maimon.” ND.
***Rashi, tức Ra-bi Shelomoh ben Yitshak (22.2.1040-13.7.1105), học giả về tôn giáo, sinh ra và qua đời tại Troyes, Pháp. Các tác phẩm của ông: Perushe Rashi 'ah ha-Torah, Rashi's Commentary on Psalms, Rashi: Commentaries on the Pentateuch. ND.
Khoảng năm 1.000 A.D. có sự hồi sinh tư tưởng của triết gia Aristotle trong thế giới Hồi giáo. Thomas Aquinas* định nghĩa lại hoàn toàn Công giáo La Mã trong thuật ngữ Aristotle khi ông viết tác phẩm Summa Theologia, trong đó ông nói ý kiến của “nhà thờ” quan trọng hơn quan điểm Kinh Thánh, cũng như các giáo sĩ Do Thái tuyên bố ý kiến của một ra-bi còn quan trọng hơn tất cả những tiên tri. Phản ứng chống lại kẻ dị giáo khủng khiếp Aquinas là những người Cải Chánh, và người theo chủ nghĩa Nhân Văn.
*Thomas Aquinas (28.1.1225-07.3.1274), tu sĩ dòng Đa Minh, Ý. Các tác phẩm của ông được biết đến nhiều nhất là Summa Theologia (Tổng Luận Thần Học) và Summa contra Gentiles (Tổng Luận Chống Dân Ngoại). ND.
Những gì Aquinas đã làm cho Công giáo La Mã thì Rambam cũng làm cho Do Thái giáo – Rambam viết quyển sách gọi là Hướng Dẫn Giải Quyết Rắc Rối (A Guide for the Perplexed), theo sau bởi lời dạy gọi là Mishnah Torah, trong đó ông Aristotle hóa Do Thái giáo với các ý tưởng hoàn toàn Hy Lạp, thật xa lạ với bất kỳ niềm tin căn bản nào của người Do Thái. Một số tác giả Talmud khác theo sau: Ra-bi Shlomo Itzachi, Ra-bi Saida Gaon “thiên tài,” Rambam, Ra-bi Moshe de Nachman – (còn biết là Nachmanides), Ra-bi David Kimchi, Ibn Ezra, Ra-bi Levi Ben Gershom, vân vân.
Vào thời điểm nầy, Kaballah bắt đầu xuất hiện. Kaballah là Do Thái giáo thần bí, văn bản nền tảng của họ là Zohar. Kaballah bắt đầu ở Ba Lan. Họ thêm vào các sách thánh khác như Pirque Rabbati, Yalkuth, và nhiều tác phẩm văn chương thế kỷ 13 khác. Rồi có Yohar on Moses do giáo phái Do Thái Hasidic nắm giữ ngày nay, bởi vì nó sử dụng thuyết Ngộ Đạo (Gnosticism) và tâm linh hóa (spiritualization), để tiếp cận với Do Thái giáo.
Ở bất kỳ sự kiện nào, Đức Chúa Trời nói gì về tất cả việc nầy? Chúng ta hãy xem: “Vì dân nầy chỉ lấy miệng tới gần Ta, lấy môi miếng tôn Ta, mà lòng chúng nó thì cách xa Ta lắm; sự chúng nó kính sợ Ta chẳng qua là điều răn của loài người, bởi loài người dạy cho” (Ê-sai 29:13). Tất cả tiên tri đều dự đoán về Đấng Mê-si, toàn bộ Cựu Ước nói về Đấng Mê-si, theo kinh Talmud mục Sanhedrin 99a, d: “Thế giới được dựng nên duy cho Đấng Mê-si” – Sanhedrin 98b. Trong Giăng đoạn 1, Kinh Thánh cho biết muôn vật bởi Chúa Jesus làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài. Ra-bi Yosef nói ở Sanhedrin 96-99 rằng Đấng Mê-si sẽ đến khi cánh cổng nầy (Rô-ma) sụp đổ và được xây dựng lại, cùng đất nước Israel sẽ bị kẻ thù tràn ngập. “Hòn đá đục ra từ núi, chẳng phải bởi tay” ở Đa-ni-ên 2:44-45 là Đấng Mê-si, theo Pirque Eliezar,* chương 11.
*Pirque Eliezar, tức Pirke de Rabbi Eliezer (chú giải kinh Torah của Ra-bi Eliezar) được công nhận và lưu truyền rộng rãi suốt lịch sử Do Thái, đến tận ngày nay. ND.
Có giáo sĩ Do Thái nổi tiếng tên là Ra-bi Leopold Cohen, người băn khoăn, lo nghĩ rất nhiều với Đa-ni-ên đoạn 9, trong đó cho biết Đấng Mê-si phải đến và chết trước sự phá hủy Đền Thờ Thứ Hai. Muốn biết điều nầy nghĩa là gì, vì vậy ông đọc ở kinh Talmud rằng thế giới sẽ kéo dài khoảng 6.000 năm, “Vì một ngàn năm trước mắt Chúa khác nào ngày hôm qua đã qua rồi,” theo Ra-bi Katina, họ liên kết điều nầy với Thi Thiên 90:4. Từ đây họ tìm thấy rằng thế giới sẽ bị 2.000 năm trong tình trạng hỗn loạn, 2.000 năm dưới Luật Pháp Môi-se, và 2.000 năm với Đấng Mê-si, khi Shabbat – Thiên Hy Niên – sẽ là 1.000 năm bình yên. Rồi chiến tranh Gog và Magog sẽ đến, Đấng Mê-si sẽ làm mới lại thế gian sau 7.000 năm, theo Sanhedrin 96b và 99a, cùng Yalkut quyển II trang 129d – đây chính xác là những gì sách Khải Huyền dạy. Đấng Mê-si sẽ đến tiêu diệt các nước và cai trị địa cầu suốt 1.000 năm bình yên, khi dân sự tự tiến hành theo cách sau đây: Ai sợ tội lỗi sẽ lấy làm gớm ghiếc, lẽ thật sẽ thất bại, con cái sẽ nổi loạn chống lại cha mẹ, thói vô luật pháp chung sẽ có nhiều, người Sa-đu-sê sẽ chiếm ưu thế khắp nơi (người Sa-đu-sê phủ nhận sự sống lại, như Giám Mục Durham) – nói cách khác, lúc dân sự xưng mình là tín nhân trong Đức Chúa Trời lại chối bỏ sự phục sinh ở mức độ phổ biến: Khi Tổng Giám Mục Anh Quốc giáo York David Jenkins khước từ sự sống lại của Chúa Jesus, hai phần ba số giám mục Anh Quốc giáo bảo vệ ông; nhưng các ra-bi lâu đời mong muốn trước David Jenkins nói rằng người Sa-đu-sê sẽ chiếm ưu thế khắp nơi – việc nghiên cứu Luật Pháp Đức Chúa Trời sẽ suy giảm, có sự gia tăng chung về nghèo đói và tuyệt vọng phổ quát, việc bội đạo sẽ gia tăng, cũng gia tăng sự thiếu quan tâm đến Kinh Thánh. Điều nầy xuất phát từ Sanhedrin 96b, 99a – hoặc, nếu bạn muốn, hãy đọc thư Sứ Đồ Phao-lô gởi cho Ti-mô-thê.
Ra-bi Cohen đã có vấn đề lớn khi ông đến với kinh Talmud và thấy điều nầy. Ông nhận thấy Đấng Mê-si phải đến khoảng năm 32 hoặc 33 sau Chúa. Kinh Talmud cho biết hai điều về mặt nầy: Một như đã nêu ở trên, và điều kia là có sự rủa sả trên bất kỳ kẻ nào đọc Đa-ni-ên đoạn 9. Ông hỏi giáo sư hướng dẫn mình tại sao, rồi nhìn vào kinh Talmud, và tìm được lý do rủa sả là thời điểm Đấng Mê-si đến được báo trước ở Đa-ni-ên đoạn
9. Ông không thể tin Đức Chúa Trời đặt điều gì đó trong Lời Ngài, mà không muốn dân sự hiểu ý nghĩa; vì vậy, Ra-bi Leopold Cohen đã trở thành mục sư Báp-tít.
Tôi đề cập đến điều nầy cách tình cờ, mặc dù đó là đề mục có thể luận giải sâu hơn nhiều: Ở kinh Talmud cần lưu ý từ Hê-bơ-rơ “dor” nghĩa là “các thế hệ (generations)” viết đúng chính tả trước khi A-đam sa ngã trong Sáng 2:4, nhưng sau đó ở thư Hê-bơ-rơ mẫu tự “vov” – cũng là số “6” vì trong tiếng Hê-bơ-rơ, các mẫu tự cũng thay cho những con số – bị mất đi, vì A-đam đã đánh mất sáu điều. Rồi mẫu tự “vov” được đặt ở Ru-tơ 4:18, bởi bà là tổ mẫu Vua Đa-vít, con trai người sẽ là Đấng Mê-si. Đấng Mê-si sẽ khôi phục lại sáu điều mà A-đam đánh mất. Bresheit Rabbah 12, p. 24b (Warsaw Edition).
Ngày nay, các Ra-bi đọc Sách Ru-tơ vào lễ Ngũ Tuần, sinh nhật của Hội Thánh. Ru-tơ là câu chuyện về một người Do Thái lấy cô dâu là dân ngoại, và từ sự kết hiệp của họ dòng dõi Đa-vít bắt đầu– từ đó cuối cùng Đấng Mê-si sẽ đến. Bạn có thấy họ biết như
thế nào? Họ biết bằng cách nào đó qua người phụ nữ ngoại bang nầy, Đấng Mê-si sẽ phục hồi lại những gì A-đam đã đánh mất.
Người Do Thái sẽ làm mọi điều có thể để nói với bạn Xa-cha-ri 12:10-12 không nhất thiết nói đến Đấng Mê-si. Xa-cha-ri 12:10-12 cho biết: “...chúng nó sẽ nhìn xem Ta là Ðấng chúng nó đã đâm; và chúng nó sẽ thương khóc, như là thương khóc con trai một...” họ sẽ cố phủ nhận điều nầy phải có nghĩa rằng họ sẽ nhìn xem Đấng Mê-si, Đấng mà họ đã đâm. Tuy nhiên, ở Sukkah 52a trực tiếp nói: “Họ sẽ nhìn lên Ta – Đấng Mê-si – Đấng mà họ đã đâm.” Kinh Talmud khẳng định hơn là phủ nhận rằng đây là nói về Đấng Mê-si – Ðấng chúng nó đã đâm.
Đấng Mê-si “đến với những đám mây trời” theo Đa-ni-ên 7:13, nhưng “nhu mì và cỡi lừa” theo Xa-cha-ri 9:9. Một người nghiên cứu kinh Talmud đề xuất nếu Israel xứng đáng, Đấng Mê-si sẽ đến với những đám mây trời, nhưng nếu Israel không xứng đáng, Ngài sẽ đến nghèo nàn và cưỡi lừa (Sanhedrin 96b–99a). Đến ngày nay, đây là cách các Ra-bi sẽ giải thích vòng quanh: Họ sẽ tuyên bố rằng Đấng Mê-si đã đến trong thời Chúa Jesus, nhưng Israel không xứng đáng và do đó Ngài đã không bày tỏ chính mình. Như thế đây trở thành cái bẫy lớn (big catch-all), bởi qua đó họ có thể giải thích bất kỳ điều gì.
Trong Phục Truyền 18, Kinh Thánh nói nếu bạn nhân danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời dự đoán việc nào đó (tiên tri) mà không xảy đến, chẳng ứng nghiệm, bạn là tiên tri giả (kẻ kiêu ngạo). Tôi tỏ rõ điều đó cho người Chứng Nhân Giê-hô-va,* trước khi chỉ ra những lời tiên tri sai lạc tạo ra ở tài liệu họ. Tương tự với người Vườn Nho (Vineyard) và lời tiên tri giả của John Wimber;** không thể được chấp nhận, vì vậy họ biết mình không thể vận dụng, xử lý nó. Ra-bi Menahem Schnerson,*** vị Lubavitch Rebbe cuối cùng, nói rằng Đấng Mê-si sẽ đến vào tháng Rosh ha Shanah (tháng Chín) năm 1991. Ngày sau thời hạn nầy, tôi gọi điện đến trung tâm Chabad ở London**** và yêu cầu được nói chuyện với ai đó nói tiếng Hê-bơ-rơ. Khi người đến trên đường dây, tôi hỏi bằng tiếng Hê-bơ-rơ, “Thế nào?” – anh ta đã biết tôi muốn nói gì. Rồi tôi đi xuống đến Stamford Hill với vài người bạn từ CMJ có lời chứng về Đấng Mê-si, mang theo những câu Kinh Thánh.***** Chúng tôi đã đối mặt với người Do Thái nơi đó với sự việc Moshe Rabbenu (Môi-se) nói rằng nếu kẻ nào nhân danh Ha Shem (Giê-hô-va Đức Chúa Trời) nói tiên tri những điều không xảy đến và chẳng ứng nghiệm, thì chúng là tiên tri giả, phải bị đưa ra ngoài và ném đá; rồi chúng tôi yêu cầu họ tuân giữ kinh Torah (Ngũ Kinh). Điều nầy chỉ ra cho họ thấy nếu vẫn tuân giữ Luật Pháp, họ phải đem Ra-bi Schnerson mình ra ngoài và ném đá ông như là tiên tri giả; lựa chọn khác duy nhất của họ là phải chấp nhận Yeshua (Chúa Jesus) là Đấng Mê-si họ, Đấng đã làm trọn Luật Pháp. Họ không thích việc đó nhiều.
*Chứng Nhân Giê-hô-va là tà giáo không tin Chúa Jesus, Đức Chúa Trời Ba Ngôi, và Kinh Thánh. Họ có bản kinh thánh riêng (Thế Giới Mới), và thường chỉ đến nhà các Cơ Đốc nhân để “làm chứng” nhằm lôi kéo đến nhà thờ của họ. ND.
**John Richard Wimber (25.2.1934-17.11.1997) là nhạc sĩ, mục sư, và một trong các lãnh đạo phong trào Vườn Nho (Vineyard Movement), giáo phái Tin Lành Tân Ân Tứ (Neocharismatics) bắt đầu ở Mỹ rồi lan rộng đến nhiều quốc gia khác. ND.
***Menachem Mendel Schneerson (05.4.1902-12.6.1994), giáo sĩ Do Thái giáo Chính Thống người Mỹ gốc Nga, nổi tiếng với nhiều tên như The Rebbe và Lubavitcher Rebbe cuối cùng. Ông được xem là một trong các lãnh đạo có ảnh hưởng nhất Do Thái giáo ở thế kỷ 20. ND.
****Chabad Center - Chabad cũng được biết đến như Lubavitch, Habad và Chabad Lubavitch, là phong trào Hasidic Do Thái giáo Chính Thống. Chabad ngày nay là một trong những phong trào Hasidic (Phục Hưng Tâm Linh) nổi tiếng nhất. Đó là nhóm Hasidic và tổ chức Do Thái giáo lớn nhất thế giới. ND.
*****Stamford Hill là khu vực phía Bắc London, nơi tập trung lớn nhất của cộng đồng Do Thái giáo Hasidic ở Âu Châu. CMJ tức Church's Ministry among Jewish People (Mục Vụ của Hội Thánh Người Do Thái) với mục vụ mang lẽ thật về Đấng Mê-si Yeshua (Jesus) cho người Do Thái, đến ngày “cả dân Y-sơ- ra-ên sẽ được cứu” (Rôm. 11:26). ND.
Tôi yêu kinh Talmud – trong đó minh họa rất rõ ràng câu nói đùa cổ xưa: “Nếu bạn có hai người Do Thái, bạn có ba ý kiến.” Hãy quên ba ý kiến đi – nếu bạn có hai người Do Thái, bạn có ba mươi ba ý kiến. Israel sẽ không có Đấng Mê-si nữa, bởi vì Ngài đã đến trong thời Vua Ê-xê-chia, theo Ra-bi Hillel – không phải Hillel chính gốc, mà là Hillel khác (Sanhedrin 96b, 99a). Ở cùng đoạn văn, Sanhedrin 96b-99a, Ra-bi Yosef, cháu nội ông đã nói, “Nguyện Đức Chúa Trời tha tội cho ông nội con, Ra-bi Hillel.”
Tuy nhiên một số người theo kinh Talmud nghĩ rằng Đấng Mê-si đến vào hai cơ hội riêng biệt, sẽ giải thích hai mô tả tương phản về sự đến của Ngài – lần nữa, Moshiach ben Yosef và Moshiach ben David. Người ta định ra hai kỳ hạn được cho ở Đa-ni-ên 12:11,12 là kỳ hạn hai lần đến vào khoảng thời gian 45 năm. (Midrash, Chú Giải về Ru-tơ 2:14, p. 43b của Warsaw Edition; cũng như The Lost Talmud về Đa-ni-ên 9:24-27). Những người vâng theo kinh Talmud xa xưa đã biết rất nhiều điều.
Một điều chắc chắn xảy ra với bạn khi bạn trò chuyện với người Do Thái là một lần nữa, họ sẽ bảo bạn Xa-cha-ri 12:10-12 không nói về Đấng Mê-si. Câu trả lời cho họ đó là Sukkah 52a cho biết điều đó. Họ cũng sẽ cố nói với bạn Ê-sai 52 và 53 không nói về Đấng Mê-si. Có lần tôi chỉ ra chính các đoạn văn đó cho một cô gái Do Thái ở kibbutz* tại Israel, và ngay lập tức cô ấy nói, “Đây là nói về Chúa Jesus.” Không ai phải nói bất kỳ gì hoặc gây ảnh hưởng nào vào tư tưởng cô – cô chỉ đơn giản sử dụng tri thức bình thường. Tên cô là Sally Brown, và tôi hy vọng cô được cứu. Dầu thế nào đi nữa, người theo kinh Talmud biết Ê-sai tiên tri về hình dạng Đấng Mê-si ở Ê-sai 52:14: “Mặt mày Người – Đấng Mê-si – xài-xể lắm hơn kẻ nào khác, hình dung xài-xể hơn con trai loài người” (Sanhedrin 97b, Yalkut Quyển II trang 53c và cũng ở Shemoth R, 15-19). Kinh Talmud nhiều lần trích dẫn Ê-sai 53 như dự đoán về hình dạng Đấng Mê-si trên đất.
*Kibbutz (và Moshav) là cộng đồng nông thôn đặc sắc và thành công nhất trên thế giới phát triển ở trình độ cao tại Israel. Bất chấp điều kiện địa lý không thích hợp cho nông nghiệp với hơn nửa diện tích đất là sa mạc, khí hậu khắc nghiệt và thiếu nước hoàn toàn, song Kibbutz và Moshav đã giúp Israel là nhà xuất khẩu lớn của thế giới về nông sản và đứng hàng đầu về công nghệ trong nông nghiệp. ND.
Có hai Targums** (việc dịch thuật và giải thích) chính trong Do Thái giáo: Targum Onkleos mà tôi đã đề cập, và Targum Jonathon. Sau cuộc lưu đày ở Ba-by-lôn, hầu hết người Do Thái biết tiếng A-ram nhiều hơn tiếng Hê-bơ-rơ, vì vậy họ đã dịch Kinh Thánh sang tiếng A-ram. Tuy nhiên, đây không chỉ đơn giản là bản dịch mà còn giải thích. Bản văn cho biết: “Ai tin điều đã rao truyền cho chúng ta, và cánh tay Ðức Giê-hô-va đã được tỏ ra cho ai? Người đã lớn lên trước mặt Ngài như một cái chồi, như cái rễ ra từ
đất khô. Người chẳng có hình dung, chẳng có sự đẹp đẽ; khi chúng ta thấy Người, không có sự tốt đẹp cho chúng ta ưa thích được. Người đã bị người ta khinh dể và chán bỏ, từng trải sự buồn bực, biết sự đau ốm” – bản văn tiếp tục, tiếp tục, và tiếp tục trực tiếp chỉ thẳng đến Đấng Mê-si. “Chúng ta thảy đều như chiên đi lạc, ai theo đường nấy, nhưng Ðức Giê-hô-va đã làm cho tội lỗi của hết thảy chúng ta đều chất trên Người...” “dầu người chẳng hề làm điều hung dữ và chẳng có sự dối trá trong miệng. Ðức Giê-hô-va lấy làm vừa ý mà làm tổn thương người, và khiến gặp sự đau ốm. Sau khi đã dâng mạng sống người làm tế (corban) – tế lễ chuộc tội – Người sẽ thấy dòng dõi mình; những ngày Người sẽ thêm dài ra, và ý chỉ Ðức Giê-hô-va nhờ tay Người được thạnh vượng. Người sẽ thấy kết quả của sự khốn khổ linh hồn mình, và lấy làm thỏa mãn. Tôi Tớ Công Bình của Ta sẽ lấy sự thông biết về mình làm cho nhiều người được xưng công bình; và Người sẽ gánh lấy tội lỗi họ” và tiếp tục. “Chính Người mang lấy tội lỗi nhiều người, và cầu thay cho những kẻ phạm tội” – Sanhedrin 98b, cũng ở Chú Giải (Midrash) Samuel, Lemburg ấn hành, trang 45a, và Targum về Nước của Đấng Mê-si. Họ biết rất rõ điều nầy nói về Đấng Mê-si, Targum Jonathon nói cách đặc biệt như vậy.
**Targum (số nhiều targumim) là danh từ có nguồn gốc từ tiếng Do Thái có nghĩa dịch (translation) và giải thích (explanation) tìm thấy trong Ê-xơ-ra 4:7 “Qua đời Át-ta-xét-xe, thì Bít-lam, Mít-rê-đát, Ta-bê- ên, và đồng liêu của chúng, viết biểu tấu lên Át-ta-xét-xe, vua Phe-rơ-sơ. Cái biểu ấy viết bằng chữ A-ram và dịch ra tiếng A-ram (tiếng Sy-ri).” Targum là việc dịch thuật, giải thích, và mở rộng Kinh Thánh Do Thái (tiếng Hê-bơ-rơ) ra tiếng A-ram, ngôn ngữ thời Chúa Jesus. ND.
Người Do Thái thường cáo buộc Cơ Đốc nhân bóp méo Kinh Thánh để khiến đoạn văn nầy chỉ về Chúa Jesus, khi họ cho rằng thật sự không nói đến Ngài; những gì hầu hết các ra-bi biện luận, đó là đoạn văn nầy nói về đất nước Do Thái và việc chịu trừng phạt của Israel. Có một số vấn đề với điều đó: Một là Ê-sai lập đi lập lại lời khiển trách Israel vì tội lỗi họ, trong khi ông mô tả Tôi Tớ Chịu Khổ nầy chẳng hề phạm tội. Như vậy ý tưởng của các ra-bi đơn giản là không phù hợp với ngữ cảnh đoạn văn. Có bốn Bài Hát Tôi Tớ (Servant Songs) trong Ê-sai, và bài thứ tư được tìm thấy ở Ê-sai 52-53, thì khác với các bài kia. Theo ý nghĩa nào đó, các ra-bi đúng: Tương tự Hội Thánh là Thân Thể của Đấng Christ, Chúa Jesus là hiện thân của Israel. Ví dụ, khi bạn thấy Kinh Thánh nói những điều giống như “Israel vinh hiển của Ta, Israel Con Đầu Lòng của Ta,” đó là ám chỉ cách có giải thích về Chúa Jesus. Nhưng chỉ trong ý nghĩa rất trừu tượng là các đoạn văn nầy nói đến Israel; theo tài liệu của các ra-bi, ý nghĩa ban đầu đoạn văn chỉ về Đấng Mê-si. Khi họ bảo bạn đây không nói về Đấng Mê-si, hãy yêu cầu họ giải thích Targum Jonathan, hoặc Chú Giải Samuel.
Người Do Thái cũng sẽ buộc tội Cơ Đốc nhân về việc bày ra Giao Ước Mới (Tân Ước) chẳng hề tồn tại, họ cho rằng giao ước duy nhất là Torah. Giê-rê-mi 31:31 bảo Đức Chúa Trời “sẽ lập một giao ước mới,” nhưng khi bạn nói với họ điều nầy, họ sẽ cố bảo bạn rằng bạn đã hiểu lầm đoạn văn. Ở điểm nầy, bạn có thể chỉ đến Chú Giải trên Thi Thiên 7, trang 5a của Warsaw Edition: “Đức Chúa Trời sẽ phán bảo qua Đấng Mê-si để lập một giao ước mới.”
Thi Thiên 2 nói, “...Ngươi là Con Ta... hãy hôn Con, e Người nổi giân và các ngươi hư mất trong đường chăng.” Các ra-bi nói Đức Chúa Trời không có Con, nhưng họ có rắc rối lớn. Đây là nơi tôi chỉ bạn làm thế nào để ép một ra-bi chính thống phải về hưu sớm ở Florida: Thi Thiên 2 đặt cùng Thi Thiên 110 và II Sa-mu-ên 16:1, rồi kết nối với Tôi Tớ Chịu Khổ ở Ê-sai 53. Những điều nầy có thể đọc trong Chú Giải II Sa-mu-ên 16:1, phân đoạn 19 của Lemburg Edition, trang 45; cũng đọc ở Chú Giải Thi Thiên 7, trang 5a của Warsaw Edition; và Yalkut Quyển II, trang 90a.* (Các tài liệu nầy có thể nhận được ở Yeshiva** hoặc tại thư viện tôn giáo Do Thái Jewish library.)
*Yalkut hay Yalkut Shimoni là biên soạn mà tác giả thu thập được về chú giải các sách của Kinh Thánh Hê-bơ-rơ. ND.
**Yeshiva (số nhiều yeshivot hay yeshivos), tiếng Hê-bơ-rơ, nghĩa đen: “ngồi (sitting)” là tổ chức Do Thái chuyên nghiên cứu các bản văn tôn giáo truyền thống, chủ yếu là kinh Talmud và Torah. ND.
Khi được kết nối với Thi Thiên 110 cùng II Sa-mu-ên 16:1 và Ê-sai 53, đoạn văn tiếp tục cho biết: “Chống lại Đức Chúa Trời và Đấng Mê-si: Nếu tìm được Con Vua, ta sẽ tóm lấy Người và đóng đinh Người trên thập tự giá với cái chết tàn ác.” Kinh Talmud thật sự nói Đấng Mê-si sẽ bị đóng đinh, “Litzlov oto” chính xác là điều Kinh Talmud cho biết, “crucify (đóng đinh trên thập tự giá).” Đây là một điều người Do Thái không thể trả lời; nó gây sốc cho họ. Một lần nữa ở Sáng Thế Ký 49:10, Gia-cốp tiên đoán, “cây phủ việt (vương trượng) chẳng hề dời khỏi Giu-đa, kẻ lập pháp không dứt khỏi giữa chân nó, cho đến chừng Ðấng Si-lô hiện tới, và các dân vâng phục Ðấng đó.” Kinh Ba-by-lôn Talmud cho biết khi điều nầy xảy ra, các nhà hiền triết nói: “Khốn thay cho chúng ta, vì vương trượng bị lấy khỏi Giu-đa, và Đấng Mê-si không xuất hiện.” Ra-bi Ruchman thêm vào rằng các ủy viên hội đồng Do Thái thì đầu phủ tro, mặc áo gai, và khóc lóc thảm thiết khi nghe những lời nầy. Kinh Jerusalem Talmud đánh dấu sự kiện nầy xảy ra ít hơn bốn mươi năm trước khi Đền Thờ bị phá hủy năm 70 A.D. (sau Chúa); vì vậy họ cho rằng Đấng Mê-si bị đóng đinh vào khoảng năm 30 A.D. – Kinh Jerusalem Talmud, Sanhedrin quyển 24, và kinh Ba-by-lôn Talmud, Sanhedrin chương 4, quyển 37.
“Tội lỗi của kẻ ẩn dấu với Người sẽ khiến Người bị đặt dưới ách sắt, và chúng sẽ làm Người như với bò con. Ta sẽ đặt nó trên Ta để không người Israel nào bị hư mất, há chẳng phải Ta là thịt và huyết sao?” – Chú Giải trên Giê-rê-mi 31:8, cũng như Ê-sai 53. “Tất cả giới hạn thời gian liên quan đến sự đến của Đấng Mê-si đã qua.” – Sanhedrin 96-
99. Kinh Talmud nêu ra cách rõ ràng rằng Đấng Mê-si phải đến rồi.
Kinh Talmud ghi nhận Đức Chúa Trời tạo nên nhiều con số có ý nghĩa trong kế hoạch Ngài: Có mười tên cho hình tượng và tiên tri, mười thử thách cho Áp-ra-ham, mười thế hệ từ A-đam đến Nô-ê, và mười thế hệ từ Nô-ê đến Áp-ra-ham – Avodah chương 36.*** Từ điều nầy họ phát triển hệ thống đánh dấu ngày tháng (dating system). Hệ thống nầy của Israel được đưa ra ở Lê-vi 26:13-16 và họ áp dụng vào Kinh Talmud. Môi-se đánh dấu Đấng Mê-si ra đi vào năm 33 A.D. – Chú Giải Bresheit, Rabbah trên Sáng Thế Ký Genesis, trang 24b của Warsaw Edition. Hệ thống đánh dấu ngày tháng của họ cho biết Đấng Mê-si phải ra đi vào năm 33 A.D.
***Avoda hay Avodah là từ ngữ Do Thái có nghĩa đen “công việc, làm việc (work).” Theo ý nghĩa truyền thống, “Avodah” chỉ về việc dâng của tế lễ trong Đền Thờ. Từ ngữ “Avodah” cũng được dùng để mô tả khái quát các nghi lễ hiến tế, và công việc chính phức tạp của Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm trong Lễ Yom Kippur (Đại Lễ Chuộc Tội). ND.
Kinh Talmud nói Đền Thờ bị phá hủy năm 70 A.D. đã được Đa-ni-ên 9:24-27 tiên báo. Khi bạn tranh luận với các ra-bi về các tuần lễ Đa-ni-ên và ý nghĩa của chúng – tôi không có thì giờ giải thích bây giờ – điều dễ nhất để nói là Đa-ni-ên 9 bảo Đấng Mê-si phải đến và chết đi trước khi Đền Thờ Thứ Nhì bị phá hủy. “Không, không phải vậy,” họ sẽ nói với bạn, song Yalkut quyển II, trang 79d cho biết thế, và Nazir 32b cũng vậy. Kinh Talmud nói rằng Đền Thờ bị phá hủy vào năm 70 A.D. đã được Đa-ni-ên 9:24-27 dự đoán, khi sự đến của Đấng Mê-si được tiên báo trước sự phá hủy nầy. Vậy Đấng Mê-si được tiên tri phải đến và bị giết trước năm 70 A.D., theo Kinh Talmud – và các Ra-bi Do Thái đã biết điều nầy.
Kinh Talmud xác nhận “hòn đá đục ra từ núi, chẳng phải bởi tay” ở Đa-ni-ên 2:44, 45 một lần nữa là Đấng Mê-si. “Ngài sẽ là nơi thánh, nhưng cũng là hòn đá vấp ngã, vầng đá vướng mắc cho cả hai nhà Y-sơ-ra-ên” (Ê-sai 8:14), Đức Chúa Trời đã tiên báo các lãnh đạo Israel sẽ chối từ Đấng Mê-si: Đấng “đã trở nên sự cứu rỗi cho tôi. Hòn đá mà thợ xây loại ra, đã trở nên đá đầu góc nhà” (Thi 118:21, 22); đó là Hillel Rabbah mà họ hát cho Chúa Jesus vào Chúa Nhật Lễ Lá (Palm Sunday).
Các Ra-bi vĩ đại nhất Moses Maimonides, Rambam, đã xác nhận sự xuất hiện của Đấng Mê-si Jesus vào năm 30 A.D. là hòn đá gây vấp ngã, vướng mắc lớn nhất của nhà Israel. Trong Các Vua và Chiến Tranh (Kings and Wars) chương 11, ấn bản chưa bị kiểm duyệt (các ra-bi có lý do rõ ràng đưa ra phiên bản đã kiểm duyệt) nói rằng: “Chưa bao giờ có hòn đá nào gây vấp ngã lớn hơn là vấn đề về Yeshua (Jesus) năm 30 A.D.” Vì ba năm rưởi, Shekinah – nơi ngự của Đức Chúa Trời, sự hiện diện Ngài – ngự trên Núi Ô-li-ve, chờ đợi để thấy Israel ăn năn, và kêu gọi họ: “Hãy tìm kiếm Ðức Giê-hô-va đang khi mình gặp được; hãy kêu cầu đang khi Ngài ở gần,” nhưng tất cả đều hư không trống vắng. Sau ba năm rưởi, Shekinah quay khỏi Núi Ô-li-ve. – Ca Thương của các Ra-bi.
Có một điều được gọi là Avodat Zerah; đó là khi các Cơ Đốc nhân nói họ tin Chúa Jesus đã làm phép lạ, sống lại từ kẻ chết, và được cất lên trới từ Núi Ô-li-ve – nhưng liệu người không chỉ là phi Cơ Đốc (non-Christians) mà người thật sự còn chống lại Cơ Đốc (anti-Christian) có tin tất cả những việc nầy không? Các bạn có thể đọc những sử gia La Mã chẳng hạn như Suetonius và Tacitus, thật hấp dẫn khi đọc thể nào dân ngoại Rô-ma hiểu biết về Chúa Jesus – thậm chí họ chẳng phủ nhận những việc Chúa đã làm; người ta nói rằng kiến thức phổ biến suốt toàn cõi Đế Quốc La Mã là Chúa Jesus đã sống lại từ kẻ chết. Tuy nhiên Avodat Zerah nói Chúa Jesus làm phép lạ không như ra-bi khác, rằng các môn đồ Ngài không chỉ chữa lành người bệnh, mà ngay cả còn khiến kẻ chết sống lại nhân danh Chúa Jesus, rằng sau khi bị đóng đinh trên thập tự giá Ngài đã sống lại từ kẻ chết, và rằng Chúa được cất lên trời từ Núi Ô-li-ve. Tất cả điều đó thật sự ở trong Kinh Talmud – ngay cả kẻ thù của Chúa cũng thừa nhận sự thật về những gì Ngài đã làm. Điều nầy được ghi chép bởi các ra-bi, những người đang cố ngăn chận người Do Thái khác đừng tin vào Chúa Jesus; nhưng họ phải đề cập đến tính chất lịch sử có thật của những phép lạ Ngài, về các môn đồ Chúa làm phép lạ, và không những về việc Chúa bị đóng đinh mà còn về sự phục sinh và thăng thiên của Ngài nữa – Kinh Talmud thừa nhận Chúa đã làm những việc đó! Khi bạn đối mặt với các ra-bi chính thống về những việc nầy, họ sẽ không muốn đề cập đến. Tuy nhiên, nếu bạn ép, họ sẽ nói với bạn Chúa Jesus biết Kabbalah* – được phát minh nhiều thế kỷ sau đó, nhưng họ nói lộn xộn – Chúa Jesus biết Kabbalistic, những bí mật huyền nhiệm và có tên không thể nói ra về Ha Shem (bốn phân tử gram: tetragrammaton) dưới lưỡi Ngài, dưới chân Ngài, rồi tiếp tục, và đây là cách Chúa thực hiện những phép lạ nầy. Đó là những gì họ sẽ nói với bạn nếu bị ép.
*Kabbalah là tên của một triết học và thông thiên học (theosophy) huyền bí phát triển trong vòng người Do Thái ở Ba-by-lôn, và sau đó ở Ý, Provence, và Tây Ban Nha giữa thế kỷ thứ 6 và 13 AD. ND.
Các ra-bi sẽ cố để nói với bạn Thi Thiên 22 thật sự không nói: “Chúng nó đâm lủng tay và chân tôi” (Thi 22:16), tất cả Thi Thiên 22 được ứng nghiệm ở Ma-thi-ơ 27, nhưng trong tiếng Hê-bơ-rơ có sự khác biệt ở mẫu tự “aleph,” họ cắt ngắn một “vav” để khiến nó thành “yod” và theo cách nầy, họ sẽ cố để thay đổi:** “Chúng nó đâm lủng tay và chân tôi” thành “tôi giống như chân sư tử.” Đây có thể là hợp pháp, ngoại trừ ai đó phải thay đổi tại vài điểm, bởi vì Kinh Talmud cho biết như sau: “Vào thời điểm sáng tạo của Đấng Mê-si” – đáng ngợi khen thay Danh Ngài – Đấng Thánh sẽ nói cách chi tiết những gì xảy đến với Ngài: “Có những linh hồn bị giết với ngươi dưới ngai Ta, đó là tội lỗi họ sẽ đè nặng ngươi dưới ách sắt và khiến ngươi giống như bò con với đôi mắt mờ đi trong đau khổ.” Nói cách khác, theo Kinh Talmud, Đấng Mê-si sẽ biết trước khi Ngài giáng sinh rằng Ngài sẽ đến để chịu chết cho dân Ngài. “Trong khoảng thời gian bảy năm trước sự đến của Con Vua Đa-vít, ách sắt sẽ được mang đến và tra trên cổ Ngài cho đến chừng thân thể Đấng Mê-si bị gãy gập xuống. Đó là thử thách của Con Vua Đa-vít, Đấng khóc và phán: “Sức lực tôi khô như miếng gốm” (Thi 22:15). Trong Yalkut Shimoni,*** họ kết nối “những chó bao quanh tôi” (việc sử dụng nguyên tắc chú giải được gọi là “binyan ab m'shna ketubim” với Sách Ê-xơ-tê), Ra-bi Nê-hê-mi nhận xét: “Chúng nó đâm lủng tay và chân tôi...” Do đó, Pisgah Rabbatai 36:1, 2 trực tiếp tuyên bố rằng Thi Thiên 22 nói về Đấng Mê-si đến để chịu chết.
**Aleph, vav (vov), và yod (yud) là các mẫu tự thứ nhất, sáu và mười trong bảng chữ cái (alphabet) của tiếng Hê-bơ-rơ. ND.
***Yalkut Shimoni, hoặc đơn giản Yalkut, là việc biên soạn trên các sách trong Kinh Thánh Hê-bơ- rơ, tác giả thu thập các chú giải Kinh Thánh khác nhau, rồi sắp xếp theo trình tự các phần Kinh Thánh. ND.
Có những giải thích ngôn ngữ kỹ thuật cho việc dịch “giống như sư tử” chẳng hạn sự điều chỉnh đọc bản văn được gọi là “im crea.” Rồi trong Yalkut Shimone, chúng ta tìm thấy: “Những chó bao quanh tôi” – bằng cách nào đó họ kết nối điều nầy với Sách Ê-xơ- tê và vua A-suê-ru – “một lũ hung ác vây phủ tôi; ka a'ri,” trong Anh ngữ, “chúng nó đâm lủng tay và chân tôi” – Ra-bi Nê-hê-mi trích dẫn theo cách nầy, và việc đọc “đâm lủng” được các ra-bi ngày xưa chấp nhận. Ngoài ra, Peshitat Abitai trực tiếp nói rằng Thi Thiên 22 nói về Đấng Mê-si chịu khổ và chết.
Một lần nữa, Ê-sai 52 và 53 từ Targum Jonathon: “Nầy, tôi tớ Ta, Đấng Mê-si sẽ thạnh vượng; Người sẽ được tôn cao, tuyệt vời và đầy quyền năng” – đây là nói về Đấng Mê-si cách trực tiếp và lập đi lập lại nhiều lần.
Đa-ni-ên 9, Megillah 3a (aleph) Targum về Các Tiên Tri, được Jonathon ben Uzziel sáng tác dưới sự hướng dẫn của các Tiên Tri A-ghê, Xa-cha-ri và Ma-la-chi, theo truyền thống: “Và có tiếng từ trên trời phán rằng: Có phải đây là Đấng đã bày tỏ những huyền nhiệm Ta?” Ông tiếp tục tiết lộ bởi Targum ý nghĩa bên trong Hegiographa (phần Thánh Kinh trong đó bao gồm Sách Đa-ni-ên), nhưng có tiếng từ trên trời phán rằng:* “Đủ rồi!” “Tại sao, tại sao chúng ta không đọc Đa-ni-ên 9?” “Bởi ngày Đấng Mê-si được báo trước trong đó.” Một lần nữa, Sukkah 52 dính dáng đến Đấng Mê-si bị đâm: “Điều gì gây ra sự thương khóc trong Xa-cha-ri 12:12?” Ông giải thích thật tốt rằng nguyên nhân là việc giết chết Đấng Mê-si, Con Trai Giô-sép, vì phù hợp với Kinh Thánh: “Chúng nó sẽ nhìn xem Ta là Ðấng chúng nó đã đâm; và chúng nó sẽ thương khóc, như là thương khóc con trai một” (Xa. 12:10).
*Nguyên văn tiếng Hê-bơ-rơ là “Ba Kol” nghĩa là tiếng Đức Chúa Trời (the voice of God). Trong Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo, “Ba Kol” công bố ý muốn hoặc phán xét của Đức Chúa Trời. ND.
Chúng ta có thể tiếp tục mãi như vậy, không chỉ có duy nhất một lời tiên tri về Đấng Mê-si mà tôi dùng trong việc làm chứng cho dân Do Thái, rằng tôi có thể chứng minh đó chẳng phải là sáng kiến của Cơ Đốc nhân để áp dụng vào Chúa Jesus. Ví dụ như Kinh Talmud đồng ý rằng Mi-chê 5:2 là nói về Đấng Mê-si, Đấng theo cách nào đó phải được dự báo trước: “Hỡi Bết-lê-hem Ép-ra-ta, bởi ngươi là nhỏ nhất trong các chi phái Giu-đa, song từ nơi ngươi sẽ ra cho ta một Ðấng từ trước vô cùng tồn tại đến đời đời.” Từ Targum Mi-chê 5:1, Targum Jonathon nói điều nầy: “Hỡi Bết-lê-hem Ép-ra-ta, ngươi ở trong hàng ngàn Giu-đa là nhỏ lắm, song từ nơi ngươi sẽ ra cho ta một Ðấng cai trị trong Israel – gốc tích của Ngài bởi từ đời xưa, từ trước vô cùng” (Mi-chê 5:1).* Theo cách nầy khi gặp ai đó phản đối Cơ Đốc nhân đọc điều gì mà trong đó Mi-chê 5:1 thật sự không nói đến, người ta có thể trả lời rằng Cơ Đốc nhân không đọc bất cứ thứ gì người Do Thái không đọc rất lâu trước khi Cơ Đốc giáo được thành lập.
*Trong các bản Kinh Thánh Anh ngữ thì câu nầy là Mi-chê 5:2; còn câu Mi-chê 5:1 trong bản Anh ngữ là câu Mi-chê 4:14 trong bản Truyền Thống Việt ngữ. ND.
Từ Sáng Thế Ký 3:1-15: “Và sẽ là vậy khi các con trai người nữ siêng năng học Kinh Torah và vâng giữ mạng lệnh, chúng sẽ trực tiếp đánh vào đầu và giết chết ngươi” – ngay từ lúc ban đầu, họ tin rằng Đấng Mê-si phải bị giết. Bình luận trên Sáng 23:5 từ Chú Giải Rabbah cho biết Ra-bi Tanhumah nói: “Trong danh Ra-bi Shmuel Kozit, cô ám chỉ dòng dõi sẽ nảy sinh từ nguồn gốc khác – Đấng Mê-si.” Chú Giải đề cập đến cách đặt tên Ê-va của Sết, được kết nối với ý tưởng về Đấng Mê-si giày đạp đầu con rắn và bị thương ở gót chân.
Bạn sẽ chỉ cần làm một việc với tất cả thông tin nầy, đó là: Hãy làm suy yếu lập luận của người Do Thái, họ cho rằng những điều nầy là kết quả bịa đặt mà Cơ Đốc nhân ngoại bang đã bóp méo Kinh Thánh Do Thái. Một người có thể chỉ ra cách rõ ràng các
ra-bi xa xưa đã hiểu biết những điều nầy theo cùng cách mà Cơ Đốc nhân hiểu. Nhưng có điều gì đó được gọi là “ecclentics” hay lòng tin. “Ví bằng Cha, là Ðấng sai Ta, không kéo đến, thì chẳng có ai được đến cùng Ta” (Giăng 6:44) – nếu bạn mang một Chứng Nhân Giê-hô-va đến nhà tôi, tôi có thể thắng được mọi tranh luận, nhưng không có nghĩa người đó sẽ được cứu. Cũng tương tự như vậy với người Mọt-môn, hoặc ra-bi Do Thái.
Những điều nầy thì rất quan trọng – Phao-lô bảo chúng ta “hãy giảng đạo, cố khuyên, bất luận gặp thời hay không gặp thời, hãy đem lòng rất nhịn nhục mà bẻ trách, nài khuyên, sửa trị, cứ dạy dỗ chẳng thôi” (II Ti-mô-thê 4:2). Tôi chắc chắn không phủ nhận tầm quan trọng của loại lời dạy nầy; nhưng không có sự cầu nguyện và đời sống thánh khiết nào sẽ khiến cho người Do Thái phải ganh tỵ, thì thật vô ích. Chúng ta có con đường dài để đi, nhưng Đức Chúa Trời đang làm việc gì đó. Chúng ta sẽ thấy Chúa làm việc trong vòng người Do Thái vào Những Ngày Sau Rốt theo cùng cách mà Ngài làm với Hội Thánh đầu tiên – với không chỉ hàng người sẽ được cứu, mà thậm chí hàng chục ngàn người. Chúng ta sẽ thấy toàn bộ các nhà hội Do Thái chia rẽ về vấn đề Chúa Jesus là Đấng Mê-si – nhưng bạn biết gì? Chúng ta cũng sẽ thấy toàn bộ các Hội Thánh phân hóa về loại vấn đề tương tự.